Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

BIỂU TÌNH CHÍNH KHÍ CA - Khuyết danh.

Hỡi ôi!

Hải đảo- Biển Đông; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công đèn sách, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận chống Tàu, tuy là mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:

Nhà báo nhà văn; giáo sư tiến sĩ.

Chưa quen tụ tập, đâu biết biểu tình; chỉ nghiên cứu sinh, ở trong trường bộ.

Cầm bút nghiên, cầm đèn sách, tay vốn quen làm; tập phản đối, tập đấu tranh, mắt chưa từng ngó.

Tiếng hải tặc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi bốn tốt vấy vá đã ba năm, ghét nhu nhược như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy ngư dân bị chấn lột, muốn tới ăn gan; ngày xem tàu Hải giám chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Biển Đông chủ quyền sáng rõ, há để ai bịa đặt lưỡi bò; hai quần đảo lớn của ta, đâu dung lũ cướp ngày chiếm chỗ.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức biểu tình; chẳng thèm đắp tai cài trốc, chuyến này quyết giương cao cờ, biểu ngữ.
Khá thương thay:

Vốn chẳng phải thanh niên trai trẻ, theo dòng phản đối đấu tranh; chẳng qua là tiến sĩ, giáo sư, mến nghĩa xuống đường đi bộ.

Mấy chục ông nhân sĩ, nào đợi tập rèn; vài trăm chú sinh viên, không chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh cờ đỏ, nào đợi mang học vị học hàm; trong tay cầm biểu ngữ, băng rôn, chi nài sắm huân chương, giải thưởng.

Biểu ngữ viết bằng than đen mực đỏ, vạch mặt chỉ tên bọn hải tặc kia; băng rôn dùng bằng tấm vải thô, phản đối lũ bá quyền nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, cùng nhau lướt tới, cảnh sát cũng như không; nào sợ lính cơ động đám nhỏ, đám to, dấn bước xông lên, liều mình như chẳng có.

Kẻ hô vang, người hét ngược, làm cho Khương Du, Chiêu Húc hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ em Phương Nga líu lưỡi.
Ôi !

Những lăm Nhà nước đồng thanh; đâu biết biểu tình vội bỏ.

Một chắc chủ quyền rằng chữ quyết, nào hay bốn tốt bọc chữ vàng; trăm năm xã tắc ấy chữ thiêng, đâu ngờ chẳng thiêng bằng chế độ.

Đoái đường Điện Biên Phủ cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chốn Bờ Hồ, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà công an vây bắt cho cam tâm; vốn không ai xúi dục đấu tranh, bị đánh đập rủa nguyền cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:

Tấc đất biên cương ơn Tiên tổ, tài bồi cho nước nhà ta; Hải đảo- Biển Đông Tổ quốc, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở chốn quan trường, chia dự án, gặm biên cương, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tàu, ở với lưu manh rất khổ.
Ôi thôi thôi !

Phạm Duy Hiển đau chân dân dìu cõng, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Nguyễn Quang A bền bỉ giấu hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy, Hồng Kiên lên xe bus, bọn nít ranh gọi ông lão bằng thằng; não nùng thay, Xuân Diện chạy tìm đoàn, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi !

Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng ở đảo Hoàng Sa, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở Bản Giốc, Biển Đông, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống vì dân, thác cũng vì dân, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt biểu tình lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nhân sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ôi thương thay !

Có linh xin hưởng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét